Giáo hội Công giáo Rôma với Phong trào Đại kết Phong_trào_Đại_kết

Trong số các nhân vật mở đường cho phong trào đại kết về phía Công giáo, ta có thể đến Hồng y John Henry Newman (1801-90) hồi cuối thế kỷ 19. Khi còn là phần tử của Giáo hội Anh quốc, cha Newman đã mở những cuộc hội thảo để xích lại gần Giáo hội Công giáo Rôma. Ý nguyện đó vẫn tiếp tục sau khi cha gia nhập Công giáo. Sang thế kỷ 20, vào những năm 1921-1926, tại Malines đã có những cuộc đối thoại giữa Lord Halifax, một giáo dân Anh giáo với linh mục Portal người Pháp, dưới sự điều động của Hồng y Mercier.

Năm 1925, Linh mục Lambert Beauduin (1873-1960) thành lập đan viện Biển Đức tại Chevretogne và năm 1926, Linh mục C.J. Dumont mở trung tâm "Istina" hướng tới việc học hỏi và đối thoại với các Giáo hội Đông phương. Năm 1933, Linh mục Paul Couturier (1881-1953) đã mở trung tâm Công giáo đại kết ở Lyon, cổ động việc cầu nguyện cho các Kitô hữu được hợp nhất. Năm 1937, Linh mục Yves Congar (1904-1995) xuất bản quyển sách Chrétiens désunis. Principes d'un "oecuménisme catholique", một tác phẩm Thần học Công giáo đầu tiên về Đại Kết.

Thế nhưng đó chỉ là những sáng kiến cá nhân. Tòa Thánh tỏ ra dè dặt đối với phong trào Đại kết: thông điệp Mortalium animos của Giáo hoàng Piô XI (ngày 6 tháng 1 năm 1928) chấp nhận một đường lối hợp nhất duy nhất là các nhóm ly khai phải trở về với Giáo hội Công giáo Rôma.

Dưới thời Giáo hoàng Piô XII, huấn thị De motione ecumenica của Bộ Thánh vụ (ngày 20 tháng 12 năm 1949) hé mở cho người Công giáo được phép tham gia vào các hội nghị Đại Kết với một số điều kiện.

Phải chờ tới khi Giáo hoàng Gioan XXIII đắc cử Giáo hoàng thì lập trường của Tòa Thánh mới thay đổi. Sau khi loan báo triệu tập Công đồng Vatican II, vào ngày Lễ Hiện xuống năm 1960 (ngày 5 tháng 6), ngài đã cho thành lập Văn phòng cổ vũ sự hợp nhất các Kitô hữu do đức Hồng y Augustinô Bea (1881-1968) làm chủ tịch. Việc đối thoại đại kết trở thành một điểm then chốt trong chương trình của công đồng.[4]